Công trình xanh - xu thế tất yếu
Trên thế giới, việc phát triển các công trình xanh, công trình sử dụng năng lượng hiệu quả góp phần vào giảm phát thải khí nhà kính nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.
Tại Việt Nam, Chính phủ cũng đã thể hiện cam kết mạnh mẽ với quốc tế khi tham gia vào Nghị định thư Kyoto hay gần đây là Thỏa thuận Paris (COP21). Các cam kết này đã được hiện thực hóa trong nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Điển hình như Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 25/9/2012 tại Quyết định số 1393/QĐ-TTg với quan điểm tăng trưởng xanh phải do con người và vì con người, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu; Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019-2030; Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về “Định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”… Có thể thấy, phát triển các công trình xanh, công trình hiệu quả năng lượng là một trong các giải pháp và là xu hướng tất yếu.
Trụ sở Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel), tòa nhà đầu tiên tại Hà Nội đạt tiêu chuẩn của Hiệp hội Xây dựng xanh Hoa Kỳ. Ảnh minh họa
Theo Thứ trưởng Bộ Xây dựng Lê Quang Hùng, những năm gần đây, các doanh nghiệp phát triển dự án có nhiều thay đổi tầm nhìn và định hướng phát triển, hướng tới cung cấp ra thị trường những công trình có nhiều yếu tố xanh và hiệu quả năng lượng. Các dự án trình diễn của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) về ứng dựng các giải pháp kỹ thuật giảm thiểu tiêu thụ năng lượng trong công trình mới và công trình cải tạo cho thấy tiềm năng tiết kiệm năng lượng có thể đạt được từ 25-67% /công trình, với chi phí gia tăng từ 0-3% tổng mức đầu tư. Tuy nhiên, hiện tổng số công trình xanh được chứng nhận tại Việt Nam mới chỉ khoảng 150 công trình, một con số khá khiêm tốn trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới.
Các số liệu thống kê cho thấy, năm 2019, Việt Nam có 851 đô thị, trong đó có 2 đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Tỷ lệ đô thị hóa toàn quốc đạt khoảng 39,2%, riêng 2 đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh có dân số đô thị chiếm xấp xỉ 30% dân số đô thị trên toàn quốc. Tốc độ đô thị hóa tăng bình quân trên 1%/năm, riêng Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh tăng trên 3%/năm. Kinh tế đô thị cũng chiếm 70-80% tổng quy mô nền kinh tế.
Tuy nhiên, PGS.TS Phạm Thúy Loan, Phó Viện trưởng Viện Kiến trúc Quốc gia cho biết, các đô thị lớn của Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm không khí ngày càng gia tăng. Bụi TSP (các hạt bụi có đường kính khí động học nhỏ hơn, hoặc bằng 100 µm), nồng độ đã vượt ngưỡng cho phép của Quy chuẩn QCVN 05:2013 từ 2 đến 3 lần. Lượng rác thải xây dựng phát sinh cũng ngày một lớn, tiêu tốn một lượng kinh phí rất lớn để xử lý với hơn 0,5 triệu USD mỗi ngày. Các loại bệnh tật, dịch bệnh và thực phẩm bẩn ngày càng tăng. Nhiều đô thị đang thường xuyên phải ứng phó với tình hình ô nhiễm môi trường, ngập úng như tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, hay nước kênh rạch bị nhiễm mặn tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Cùng với đó, các đô thị cũng đang phải đối mặt với ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, đòi hỏi phải đảm bảo khả năng chống chịu.